Văn Phòng Luật Sư (VPLS) Phạm Quốc Hưng

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ PHẠM QUỐC HƯNG

386/3D Lê Văn Sỹ, P.14, Quận 3, TP HCM

VÌ MỘT NỀN CÔNG LÝ NGÀY CÀNG SÁNG TỎ

THU THUẾ

dd3
THU THUẾ

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Bà Nguyễn Thị Thanh là chủ sử dụng quyền sử dụng đất tại Thửa đất số 10, Tờ bản đồ số 01, tại địa chỉ phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 008676 do UBND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 08/08/2006.

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Bà Nguyễn Thị Thanh là chủ sử dụng quyền sử dụng đất tại Thửa đất số 10, Tờ bản đồ số 01, tại địa chỉ phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 008676 do UBND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 08/08/2006.

Ngày 19/10/2018, bà Nguyễn Thị Thanh ủy quyền cho tôi là Phạm Quốc Hưng và Nguyễn Văn Tiến (Theo Hợp đồng ủy quyền số 2266/2018/HĐUQ do tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Houston, Texas, Hoa Kỳ chứng nhận ngày 02/10/2018 và số công chứng 011919, quyển số 10 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Hoàng Long, tỉnh Đồng Nai chứng nhận ngày 19/10/2018) được đại diện và thay mặt bà Thanh giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, việc ủy quyền không có thù lao.

Trên cơ sở  hợp đồng ủy quyền, tôi – Phạm Quốc Hưng và Nguyễn Văn Tiến đã ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Thửa đất số 10, Tờ bản đồ số 01, tại địa chỉ phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 008676 do UBND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 08/08/2006 của bà Nguyễn Thị Thanh cho ông Nguyễn Văn Hòa.

Trên cơ sở hồ sơ chuyển nhượng, Chi Cục Thuế TP. Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) ra Thông báo số 123/TB-CCT ngày 15/8/2018, yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh nộp thuế TNCN trong việc ủy quyền chuyển nhượng QSDĐ và ông Phạm Quốc Hưng, Nguyễn Văn Tiến phải nộp thuế TNCN trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Thanh.

Kính đề nghị Chi Cục Trưởng xem xét lại việc Chi Cục Thuế TP. Biên Hoà yêu cầu người được ủy quyền phải nộp thuế thu nhập cá nhân, bởi các lẽ sau:

+ Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 1 Điều 138. BLDS 2015 – Đại diện theo ủy quyền quy định như sau:

1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.

 Như vậy bà Nguyễn Thị Thanh có quyền ủy quyền cho tôi – Phạm Quốc Hưng và Nguyễn Văn Tiến thực hiện việc chuyển nhượng bất động sản và việc ủy quyền này là đúng quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 134, Khoản 1 Điều 139. BLDS 2015 – Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện:

1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.”.

 Vậy, việc tôi – Phạm Quốc Hưng và Nguyễn Văn Tiến chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Hòa là nhân danh và vì lợi ích của bà Nguyễn Thị Thanh, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với bà Nguyễn Thị Thanh, bà Thanh có quyền nhận tiền từ việc chuyển nhượng, có thu nhập phải chịu thuế như trên, giao dịch này không làm phát sinh thu nhập chuyển nhượng bất động sản đối với tôi – Phạm Quốc Hưng và Nguyễn Văn Tiến. Vậy chúng tôi không có nghĩa vụ phải nộp thuế TNCN theo như thông báo của Chi Cục Thuế TP. Biên Hòa.

+ Thứ hai, theo quy định tại Điểm d Khoản 5 Điều 3 Nghị định 65/2013/NĐ-CP quy định về Thu nhập chịu thuế như sau:

Điều 3. Thu nhập chịu thuế

  1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm:
  2. d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản dưới mọi hình thức. Thu nhập chịu thuế tại khoản này bao gồm cảkhoản thu nhập từ việc ủy quyền quản lý bất động sản mà người được ủy quyền có quyền chuyển nhượng bất động sảnhoặc có quyền như người sở hữu bất động sản theo quy định của pháp luật.”.

+ Thứ ba, theo quy định tại Tiết b.2 Điểm b Khoản 3 Điều 1 Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định về Người nộp thuế như sau:

Điều 1. Người nộp thuế

  1. Người nộp thuế trong một số trường hợp cụ thể được xác định như sau:
  2. b) Đối với cá nhân có thu nhập chịu thuế khác.

b.2) Trường hợp ủy quyền quản lý bất động sản mà cá nhân được ủy quyền có quyền chuyển nhượng bất động sản hoặc có các quyền như đối với cá nhân sở hữu bất động sản theo quy định của pháp luật thì người nộp thuế là cá nhân ủy quyền quản lý bất động sản.

+ Thứ tư, theo quy định tại Điều 2 Công văn số 3373/TCT-TNCN của Tổng Cục thuế quy định:

2. Đối với các trường hợp giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán quyền sở hữu nhà ở dưới hình thức hợp đồng ủy quyền mà nội dung của hợp đồng ủy quyền có quy định cho người nhận ủy quyền được các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo các quy định tại Điều 164, 171, 182, 192, 195 Bộ Luật Dân sự, cơ quan thuế có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan chức năng tại địa phương để tiến hành kiểm tra, điều tra xác minh làm rõ nội dung của hợp đồng ủy quyền để xác định nghĩa vụ thuế TNCN của các đối tượng ủy quyền và đối tượng nhận ủy quyền trước khi làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu nhà”.

→ Như vậy, khi chưa có chứng cứ chứng minh việc ủy quyền thực chất là mua bán thì không thể mặc nhiên buộc cả người ủy quyền và người nhận ủy quyền phải đồng thời nộp thuế TNCN, việc này được xem là đánh thuế hai lần, là trái quy định pháp luật như đã viện dẫn ở trên.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, việc thu thuế của Chi Cục Thuế TP. Biên Hòa là trái quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chúng tôi.

Kính đề nghị Chi Cục Thuế TP. Biên Hòa xem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

Chân thành cảm ơn!

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Bài viết liên quan

Translate »